Kinh dịch từ lâu đã đi sâu vào văn hóa của người phương Đông. Nhờ có kinh dịch, con người nơi đây đã được khai sáng. Và, từ đây họ bước vào nền văn minh do chính mình tạo ra. Kinh dịch là đệ nhất kinh, là đệ nhất kỳ thư, là bảo điển các nước Á Đông. Nó là một hệ giá trị kinh điển của nhân loại. Nó cũng là khởi nguyên của rất nhiều hệ thống giá trị kinh điển. Chính vì thế, con người hiện đại ngày nay không chỉ trân trọng nó mà còn ra sức tìm hiểu và ứng dụng nó ngày càng sâu rộng hơn. Việc ứng dụng Kinh dịch vào đời sống thông qua 64 quẻ kinh dịch là vô cùng phổ biến. Cùng Thăng Long Đạo Quán tìm hiểu ý nghĩa 64 quẻ dịch qua bài viết dưới đây nhé!

1. Quẻ Thuần Càn

Quẻ Thuần Càn hay còn gọi là quẻ Càn, tức là Trời. Đây là quẻ số 1 trong Kinh dịch. Trong đó:

  • Nội quái là Càn
  • Ngoại quái là Càn
Ý nghĩa của quẻ Càn
Ý nghĩa của quẻ Càn

Văn Vương cho rằng bói được quẻ này thì rất tốt, hanh thông, có lợi và tất giữ vững được cho tới lúc cuối cùng. Trời có đức nguyên vì là nguồn gốc của vạn vật. Đồng thời, trời có đức hanh vì làm ra mây, mưa để vạn vật sinh trưởng. Cuối cùng, trời có đức lợi và trinh vì biến hóa, khiến cho vật gì cũng giữ được bẩm tính.

Càn tượng trưng cho người quân tử. Người quân tử có bốn đức:

  • Nhân, đức lớn nhất, gốc của lòng người, tức như đức “nguyên” của trời.
  • Lễ, là hợp với đạo lý, hợp với đạo lý thì hanh thông, cho nên lễ tức như đức “hanh” của trời.
  • Nghĩa, đức này làm cho mọi người được vui vẻ sung sướng, tức như đức “lợi” của trời.
  • Trí, là sáng suốt, biết rõ thị phị, có biết thị phi mới làm được mọi việc cho nên nó là đức cốt cán, cũng như đức “trinh” chính và bền – của trời

2. Quẻ Thuần Khôn

Quẻ Thuần Khôn còn gọi là quẻ Khôn, tức Đất. Là quẻ số 2 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là khôn
  • Ngoại quái là Khôn
Ý nghĩa quẻ Thuần Khôn
Ý nghĩa quẻ Thuần Khôn

Khôn có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của con ngựa cái. Người quân tử có việc làm mà thủ xướng thì lầm, để người khác thủ xướng mà mình theo sau thì được. Chỉ cốt lợi ích cho vạn vật. Nếu đi về phía tây nam thì được bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng giữ đức bên vững, tốt.

Quẻ Càn thì gồm 6 hào dương, quẻ Khôn gồm 6 hào âm. Vì thế, Càn cương kiện còn Khôn thì nhu thuận. Càn tạo ra vật vô hình, thuộc phần khí còn Khôn thì vạn vật hữu hình. Có vậy, vạn vật mới sinh trưởng, sinh sôi tốt đẹp. Khôn bổ túc cho Càn, theo sau Càn.

Khôn có đủ các đức như Càn nhưng với đức trinh thì Khôn hơi khác. Đức trinh của Khôn, tuy chính và bền nhưng phải thuận. Văn Vương dùng ngựa cái để tượng Khôn: ngựa là giống mạnh mà ngựa cái có tính thuận theo ngựa đực.

Người quân tử nếu ở vào địa vị khôn, phải tùy thuộc người trên thì làm việc cũng đừng nên khởi xướng để khỏi lầm lẫn, chờ người ta khởi xướng rồi mới theo thì được việc, như vậy là có đức dày như đất, chở được muôn vật, lớn cũng không kém đức của trời (Càn).

3. Quẻ Thủy Lôi Truân

Quẻ Thủy Lôi Truân đôi khi còn gọi là quẻ Truân. Đây là quẻ số 3 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)
Quẻ Thuỷ Lôi Trân
Quẻ Thuỷ Lôi Trân

Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn.

Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu).

Tượng quẻ này là Chấn (Sấm), ở trên là mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm. Vì thế mà quẻ đặt là Truân. Lại thêm, nội quái có một hào dương (Cương), hai hào âm (Nhu). Ngoại quái cũng như vậy, cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật mà lúc đầu bao giờ cũng gian nan (Truân).

Trong lúc gian nan mà có động thì có thể là tốt, nhưng phải kiên nhân giữ điều chỉnh. Đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình.

4. Quẻ Sơn Thủy Mông

Quẻ Sơn Thủy Mông còn gọi là quẻ Mông. Là quẻ thứ 4 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)
Quẻ Sơn Thuỷ Mông
Quẻ Sơn Thuỷ Mông

Trẻ thơ được hanh thông. Không phải ta tìm trẻ thơ mà trẻ thơ tìm ta. Hỏi (bói) một lần thì bảo cho, hỏi hai ba lần thì là nhàm, nhàm thì không bảo. Hợp với đạo chính thì lợi (thành công).

Theo nghĩa của quẻ thì cấn là ngưng, Khảm là hiểm. Ở trong (nội quái) thì hiểm, mà ở ngoài (ngoại quái) thì ngưng, không tiến được, tỏ ra ý mù mờ, cho nên gọi là Mông.

Xét theo hình tượng, cũng có thể giảng là dưới chân núi có suối nước trong, tức như hạng người còn nhỏ (khi thành sông mới là lớn), hạng “đồng mông”, cho nên gọi quẻ này là Mông (mông có nghĩa là non yếu).

Quẻ này chỉ chú trọng vào hào 2 và hào 5. Hào 2 là dương cương, đắc trung làm chủ nội quái, đáng là một vị thầy cương nghị. Hào đó ứng với hào 5 âm nhu thuận mà cùng đắc trung, là tượng học trò ngoan. Vậy là thầy trò tương đắc, sự học hành tất có kết quả tốt, cho nên quẻ này có đức hanh thông.

Quẻ này nói về cách giáo hóa, cần nghiêm (hào 1) nhưng không nên nghiêm khắc quá mà ngăn ngừa lỗi của trẻ (hào 6).

5. Quẻ Thủy Thiên Nhu

Quẻ Thủy Thiên Nhu còn gọi là quẻ Nhu.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)
Quẻ Thuỷ Thiên Nhu
Quẻ Thuỷ Thiên Nhu

Chờ đợi vị hiểm đằng trước, thuận theo. Quân tử hoan hội chi tượng: quân tử vui vẻ hội họp, ăn uống chờ thôi.

Nội quái là Càn, cương kiện, muốn tiến lên nhưng gặp ngoại quái là Khảm (hiểm) chặn ở trên, nên phải chờ đợi.

Hào làm chủ trong quẻ này là hào 5. Hào này ở vị trí tôn mà lại trung, chính, Vì thế nên có cái tượng thành thực, tin tưởng, sáng sủa, hanh thông. Quẻ này miễn là chịu chờ đợi thì việc hiểm gì cũng vượt được qua mà thành công.

Đại khái, quẻ này được giải thích là dưới là Càn, trên là Khảm (mây), có cái tượng mây đã bao kín bầu trời thế nào cũng mưa. Vì thế, cứ ăn uống yến lạc yên vui di dưỡng thể xác và tâm trí mà chờ đợi lúc trời đổ mưa.

Quẻ này rút ra chỉ cho ta cách hành xử khi chờ đợi, tùy họa ở gần hay xa. Cốt nhất ở đây là đừng nóng nảy, phải biết giữ trung tính. Chúng ta để ý rằng hào 5 quẻ Khảm tức là ở giữa cơn nguy hiểm mà vẫn được cho là vị trí tốt bởi ở đó cương một cách vừa phải, sáng suốt, chính đáng.

6. Quẻ Thiên Thủy Tụng

Quẻ Thiên Thủy Tụng hay còn gọi là quẻ Tụng. Đây là quẻ thứ 6 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)
Quẻ Thiên Thuỷ Tụng
Quẻ Thiên Thuỷ Tụng

Quẻ chủ về bất hòa, kiện tụng, bàn tính, cãi vã, tranh luận, bàn tán.

Theo tượng quẻ này, người trên (quẻ Càn) là dương cương, áp chế người dưới. Mà ở đây, người dưới (quẻ Khảm) thì âm hiểm, tất sinh ra kiện cáo. Hoặc, dễ cho cả trùng quái chỉ là một người, trong lòng thì nham hiểm (nội quái là Khảm), mà ngoài thì lại cương cường (ngoại quái Càn), tất sinh ra kiện cáo.

Chu Công cho quẻ này là trường hợp một người có lòng tin thực mà bị oan ức, vu hãm, không có người xét rõ cho nên lo sợ phải đi kiện. Nếu người đó giữ đạo trung như hào 2 (đắc trung), nghĩa là minh oan được rồi thì thôi, thì tốt. Còn, nếu như người đó cứ theo đuổi tới cùng, quyết thắng thì sẽ xấu.

Quẻ này khuyên người đó nên đi tìm bậc đại nhân công minh (tức hào 5 ứng với hào 2 vừa trung, chính, vừa ở ngôi cao) và nghe lời người đó thì sẽ có lợi. Nếu không, sẽ là tự mình tìm sự nguy hại, như lội qua sông lớn.

Còn theo Đại truyện, Càn có xu hướng đi lên, Khảm (nước) có hướng chảy xuống, như vậy là trái ngược nhau. Điều này cũng như hai nơi bất đồng đạo, tranh nhau mà sinh kiện cáo. Và lời khuyên khi gặp quẻ này là người quân tử làm việc gì cũng nên cẩn thận từ lúc đầu để tránh kiện cáo.

7. Quẻ Địa Thủy Sư

Quẻ Địa Thủy Sư hay còn gọi là quẻ Sư. Đây là quẻ số 7 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)
Quẻ Địa Thuỷ Sư
Quẻ Địa Thuỷ Sư

Kiện tụng là tranh nhau, tranh nhay thì lập phe, có đám đông nổi lên. Vì thế, sau quẻ Tụng là quẻ Sư – đám đông, có nghĩa là quân đội.

Quẻ này, trên Khôn, dưới Khảm. Theo Đại tượng truyện thì Khôn là Đất, Khảm là nước, ở giữa là đất và nước tụ lại. tượng cho quần chúng nhóm họp thành đám đông.

Theo Chu Hi thì Khảm là hiểm, trên Khôn là Thuận. Người xưa gởi binh ở trong việc nông (thời bình là nông dân, nhưng vẫn tập tành võ bị, thời loạn thì thành lính), như vậy là giấu cái hiểm (võ bị) trong cái thuận (việc nông).

Quẻ Sư khuyên người ta nên nhớ:

  • Bất đắc dĩ mới phải ra quân, ra quân phải có chính nghĩa.
  • Dùng tướng phải xứng đáng (như hào 2), đừng để cho kẻ bất tài (như hào 3) tham gia.
  • Phải cẩn thận từ lúc đầu, kỷ luật nghiêm minh, nhưng phải khéo để khỏi mất lòng quân.
  • Nếu gặp kẻ địch đương ở thế mạnh thì hãy tạm tránh.
  • Khi thành công, luận ban thưởng thì với kẻ tiểu nhân chỉ nên thưởng tiền bạc, không nên giao trọng trách.

8. Quẻ Thủy Địa Tỷ

Quẻ Thủy Địa Tỷ hay còn gọi là quẻ Tỷ. Đây là quẻ thứ 8 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)
Quẻ Thủy Địa Tỷ
Quẻ Thủy Địa Tỷ

Quẻ Sư là đám đông, khi đám đông gặp gỡ sẽ có liên lạc nên sinh quẻ Tỷ là liên lạc.

Quẻ này trên đất có nước, nước thấm xuống đất, đất hút nước nên có nghĩa là gần gũi gắn kết, thân thiết.

Trong đó, có một hào dương cương, trung chính (hào 5) thống lĩnh 5 hào âm còn lại, có cái tượng ông vua hay người trên được toàn thể dân (người dưới) tin cậy, quy phục. 5 hào âm ở vị trí tôn nên cần thận trọng, tự xét mình kỹ càng mà thấy có đủ những đức nguyên, vĩnh, trinh thì mới thật là không có lỗi.

Quẻ này nói về nhóm bạn tìm thầy. Phải cẩn trọng ngay từ ban đầu, thành tín, trung chính, vì đạo chứ không vì lợi. Và, phải để cho được tự do, không nên quá ép buộc.

9. Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc

Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc còn được gọi là quẻ Tiểu Súc. Đây là quẻ thứ 9 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại quái là Tốn (Gió)
Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc
Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc

Chữ Súc có nghĩa là nuôi, cũng có nghĩa là chứa (như chứa vật chất) và còn có nghĩa là ngăn lại, kiềm chế.

Theo tượng của quẻ, quẻ Càn (cương kiện) ở dưới quẻ Tốn (nhu thuận) có nghĩa là âm ngăn cản dương, nhỏ ngăn cản lớn.

Cũng có người lý giải rằng Gió (Tốn) bay trên Trời (Càn), xa mặt đất, sức ngăn cản của nó nhỏ nên gọi là Tiểu Súc.

Xét các hào thì hào 4 âm nhu đắc vị, hào này là quan trọng nhất trong quẻ Tiểu Súc. Do luật chúng dĩ quả vi chủ, hào 4 ngăn cản được hào 5 dương, bắt phải nghe theo nó. Theo cách lý giải này, quẻ được gọi là tiểu súc

Theo quẻ này, nếu ngăn được hào 2 và hào 5 đều dương cương thì việc chắc chắn sẽ hanh thông. Tuy nhiên, có sự cản trở nhỏ nên chưa thể phát triển hết được. Có thể ví như đám mây đóng kịt ở phương Tây mà chưa tan, chưa mưa được.

Đại trượng khuyên người quân tử ở trong hoàn cảnh của quẻ này (sức còn nhỏ) nên trau dồi tài văn chương chứ đừng hoạt động chính trị.

10. Quẻ Thiên Trạch Lý

Quẻ Thiên Trạch Lý còn gọi là quẻ Lý. Đây là quẻ thứ 10 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)
Quẻ Thiên Trạch Lý
Quẻ Thiên Trạch Lý

Quẻ này chủ về nghi lễ, khuôn phép, hệ thống, pháp lý, tượng hổ lang đón đường.

Khi nhóm đông gặp nhau thì phải có trật tự, có trên có dưới, không thể hỗn tạp được, nghĩa là phải có lễ. Sống trong xã hội cũng phải tuân theo lễ, pháp lý.

Quẻ này, trên là dương cương (Càn), dưới là âm nhu (Đoài). Vậy, trên dưới phân minh lại hợp lẽ âm dương tức là lễ, là lý. Có tính âm nhu, vui vẻ đi theo sau dương cương thì dù người đi trước mình dữ như cọp, cũng tỏ ra hiền từ với mình, cho nên bảo rằng dẫm lên đuôi cọp mà cọp không cắn.

Hào 5 của quẻ là hào dương mà trung, chính, xứng với ngôi chí tôn, chẳng có bệnh tệ gì mà lại được quang minh. Theo Đại trượng, trên dưới phân minh thì lòng dân mới không hoang mang.

Quẻ này là quẻ Lý, cả 6 hào đều nói về cách ăn ở trong đời người: mới ra đời thì phải giữ tính trong sáng, sau giữ vững đường chính (hào 2), biết sức mình không nên tự phụ (hào 3) để tránh nguy. Cần biết thận trọng và sợ hãi (hào 4) đến khi ở địa vị cao thì đừng ỷ thế mà kiên quyết quá (hào 5). Và nếu như, ăn ở được như vậy đến cuối đời thì là việc tốt.

11. Quẻ Địa Thiên Thái

Quẻ Địa Thiên Thái là quẻ số 11 trong Kinh dịch. Quẻ này hay còn gọi là quẻ Thái.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)
Quẻ Địa Thiên Thái
Quẻ Địa Thiên Thái

Quẻ Thái nghĩa là yêu thích, thông thuận.

Trong quẻ Thái này, Càn không nên hiểu là trời, vì nếu hiểu như vậy thì trời ở dưới đất, không còn trên dưới phân minh nữa, xấu. Nên hiểu Càn là khí dương, Khôn là khí âm “khí dương ở dưới có tính cách thăng mà giao tiếp với âm, khí âm ở trên có tính cách giao tiếp với khí dương”, hai khí giao hòa, mà mọi vật được yên ổn, thỏa thích.

Trên Khôn là âm nhu, kẻ tiểu nhân còn Càn ở dưới là quân tử. Quẻ Thái là tượng đạo tiểu nhân dương tiêu mòn, đạo Quân tử lớn mạnh. Hai bên ngang nhau nên gọi là Thái.

Về quẻ này, cho ta hiểu rằng trong (nội quái) là dương, ngoài (ngoại quái) là âm, trong mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài tiểu nhân, đạo quân tử thì lớn lên, mà đạo tiểu nhân thì tiêu lần.

12. Quẻ Thiên Địa Bĩ

Quẻ Thiên Địa Bĩ hay còn gọi là quẻ Bĩ, là quẻ số 12 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)
Quẻ Thiên Địa Bĩ
Quẻ Thiên Địa Bĩ

Quẻ này nghĩa là không thông, bế tắc, xui xẻo, dèm pha, chê bai. Trong vũ trụ không có gì là thông hết được, hết thông thì sẽ đến thời bế tắc vì thế mà sau quẻ Thái là quẻ Bĩ.

Quẻ Bĩ trái với quẻ Thái. Thái thì dương ở dưới thăng lên và giao với âm. Còn với Bĩ, dương ở dưới đi lên, âm ở trên xuống những không giao nhau. Âm dương không giao thì sẽ bị bế tắc, điều này đúng trong đạo người và cả vạn vật.

Theo Đại trượng khuyên rằng: gặp thời bĩ thì người quân tử nên thu cái đức của mình lại (đừng hành động gì cả, riêng giữ các đức của mình) để tránh tai nạn, đừng màng chút lợi danh nào cả.

Quẻ này cho thấy, người bốc phải quẻ này hãy luôn sẵn sàng để nắm bắt cơ hội và thực hiện nó vì thời đã tới.

13. Quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân

Quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân hay còn gọi là quẻ Đồng Nhân, là quẻ số 13 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)
Quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân
Quẻ Thiên Hỏa Đồng Nhân

Theo kiến giải của người Việt, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt.

Khi bế tắc không thể cách biệt mãi được mà phải có lúc giao hòa, cho nên sau quẻ Bĩ là quẻ Đồng Nhân. Đồng Nhân là cùng chung với người, đồng tâm hiệp lực.

Quẻ này có Ly ở dưới là lửa, sáng và văn minh. Bên trên có Càn hay là Trời. Quẻ này có tượng bốc lửa lên trời, soi khắp thế gian, vì thế mà dù có hiểm trở gì thì cũng sẽ vượt qua được.

Ở quẻ này, quan trọng nhất là hào 6. Hào này âm nhu đắc vị lại hợp với hào 5 dương cương đắc vị trong ngoại quái Càn, bởi vậy mới có hiện tượng nội ngoại tương đồng. Chính thế mà người ta gọi là Đồng Nhân.

Bàn thêm, người ta muốn thực hiện được cảnh tượng mọi vật cùng sống chung thì phải phân biệt từng loại của các chủng tộc, xét kỹ mỗi sự vật; hễ cùng loại thì đặt chung với nhau và cho mỗi vật được phát triển sở năng, thỏa được sở nguyện, có vậy thì tuy bất đồng mà hòa đồng được.

Khi rút được quẻ này, chúng ta có 2 lời khuyên là:

  • Muốn hòa động thì không chia đảng phái, tôn trọng các đặc tính của mỗi người, khả năng và nhu cầu của mỗi người.
  • Công việc hòa đồng mọi người rất chính đáng nhưng cũng rất gian nan.

14. Quẻ Hỏa Thiên Đại Hữu

Hay còn được gọi là quẻ Đại Hữu. Đây là quẻ số 14 trong Knh dịch.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại Quái là Ly (Hỏa)
Quẻ Hỏa Thiên Đại Hữa
Quẻ Hỏa Thiên Đại Hữa

Theo giải thích của người Việt, quẻ này bổ sung thêm tượng sở hữu tài sản vật chất và tinh thần ở mức cao nhất. Khi đã hòa đồng cùng mọi người thì mọi người về với mình, sở hữu của mình cũng lớn hơn trong cộng đồng. Vì thế mà sau quẻ Đồng nhân là quẻ Đại hữu (có nhiều, có lớn).

Ở trên Càn là lửa ở trên trời, chiếu sáng mọi vật như vậy có nghĩa là văn minh. Càn cương kiện bao gồm văn minh và cương kiện nên có thể sẽ rất hanh thông.

Ngoài ra, còn cách hiểu nữa là quẻ này chỉ có 1 hào âm thống lĩnh các hào dương. Nó có thể thống lĩnh được vì nó ngôi tôn mà đắc trung, hợp với hào 2 dương ở giữa quẻ Càn.

Theo Địa tượng truyện khuyên người quân tử khi gặp quẻ này phải ngăn đón những điều dữ khi nó chưa phát hiện. Và biểu dương điều tốt khi nó còn mập mờ để thuận mệnh tốt của trời.

Quẻ này khuyên người ta sống trong cảnh giàu có, nên khiêm, kiệm, giao thiệp với người nên chí thành.

15. Quẻ Địa Sơn Khiêm

Quẻ Địa Sơn Khiêm là quẻ thứ 15 trong Kinh dịch. Quẻ này còn được gọi là quẻ Khiêm.

  • Nội quái là Cấn (Núi)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)
Địa Sơn Khiêm
Địa Sơn Khiêm

Quẻ Đại hữu thì là thời rất thịnh, không nên chung để cho quá đầy, vì thế mà nên nhún nhường, nên Khiêm lại.

Quẻ này có trên là đất, dưới là núi. Núi cao, đất thấp thì núi chịu ở dưới đất là cái tượng nhún nhường. Vì thế mà có thể được hanh thông.

Quẻ này chỉ có một hào dương và được coi là chủ quẻ. Trời có đức khiêm vì ở trên đi xuống chỗ thấp mà sáng tỏ, đất có đức khiêm vì chịu ở dưới mà đi lên. Theo đạo trời, cái gì đầy thì làm cho bớt, cái gì khuyết thì đắp thêm vào. Đạo đất và đạo quỷ thần cũng vậy. Còn đối với đạo người thì ghét kẻ đầy, tức sự kiêu căng thỏa mãn, mà thích kẻ khiêm tốn (Nhân đạo ố doanh nhi hiếu khiêm). Hễ khiêm thì ở địa vị cao mà đạo càng sáng, ở địa vị thấp mà chẳng ai vượt mình được.

Khi bốc được quẻ này, khuyên người quân tử nên bớt chốn nhiều, bù chốn ít, để cho vạn vật cần xứng, quân bình.

Trong quẻ này, hào nào cũng tốt không nhiều thì ít, không kém quẻ Đại Hữu. Đa số các triết gia đều rất đề cao đức Khiêm, khi đầy phải nghĩ tới lúc sẽ vơi, phải khiêm hạ, đừng tự phụ.

16. Quẻ Lôi Địa Dự

Quẻ Lôi Địa Dự hay còn gọi là quẻ Dự. Đây là quẻ số 16 trong Kinh Dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Chấn (Sấm)
Quẻ Lôi Địa Dự
Quẻ Lôi Địa Dự

Quẻ này nói về sự vui vẻ. Có Chấn ở trên, Khôn ở dưới nên có nghĩa là ở trên thì động, ở dưới thuận theo như vậy tất vui vẻ.

Sấm ở trên đất, nghĩa là khí dương phát động (Chấn thuộc dương) mà muôn vật ở trên phát sinh, cũng là cảnh tượng vui vẻ.

Quẻ này chỉ có một hào dương (hào 4), 5 hào âm đều theo nó, nó làm chủ trong quẻ , như một người tài đức, làm việc gì cũng thuận cả, tất thành công, sẽ vui vẻ, an ổn.

Bàn thêm, cái đạo thuận lẽ mà hành động đó là đạo trời, cho nên mặt trời mặt trăng thay nhau chiếu sáng ban ngày ban đêm, không bao giờ lầm; bốn mùa thay nhau chẳng bao giờ sai. Thánh nhân thuận lẽ mà hành động thì hình phạt không phiền phức mà dân chúng phục tòng.

17. Quẻ Trạch Lôi Tùy

Quẻ Trạch Lôi Tùy hay còn gọi là quẻ Tùy. Đây là quẻ số 17 trong Kinh Dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Đoài (Đầm)
Quẻ Trạch Lôi Tùy
Quẻ Trạch Lôi Tùy

Tùy nghĩa là theo, rất hanh thông những phải theo điều chính đáng.

Quẻ có Đoài ở trên là vui vẻ, Chấn ở dưới là động. Đó là cái tượng hành động mà được người vui theo. Hoặc có thể hiểu rằng Chấn là Sấm, Đoài là chằm, sấm động ở trong chằm, nước chằm theo tiếng sấm mà cũng động, cho nên gọi là Tùy.

Quẻ Tùy so với quẻ Càn thì còn kém, tuy nhiên cần bàn thêm: theo mà phải đúng thời mới được. Ví dụ như thời Hán, Vương Mãng cũng đã muốn làm một cuộc cách mạng xã hội; rất công bằng, tốt; nhưng thời đó sớm qua, nên thất bại. Tới đời Tống, Vương an Thạch cũng thất bại, như vậy là không hợp thời. Và Thoán truyện nhấn mạnh vào cái nghĩa tùy thời đó.

Quẻ này khuyên chúng ta nên theo chính nghĩa không vì tư tình, vì lợi và biết tùy thời. Có như vậy thì tốt tới cũng được.

18. Quẻ Sơn Phong Cổ

Quẻ này hay còn gọi là quẻ Cổ, là quẻ thứ 18 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)
Ý nghĩa quẻ Sơn Phong Cổ
Ý nghĩa quẻ Sơn Phong Cổ

Quẻ này có sự không yên trong lòng, làm ngờ vực, làm cho sợ sệt. Cổ có hai nghĩa là đổ nát và công việc. Hễ đổ nát thì phải sửa lại, thế là có công việc.

Quẻ này trên là núi, dưới là gió, gió đụng núi quật lại, đó là tượng loạn, không yên, tất phải có công việc.

Tốn ở dưới là thuận, mà Cấn ở trên là ngưng chỉ; người dưới thì thuận mà người trên cứ ngồi im; hoặc người dưới một mực nhu, người trên một mực cương để nén người dưới, như vậy mọi sự sẽ đổ nát, phải làm lại.

Đổ nát mà làm lại thì tốt, rất nên nhưng cần phải xông pha, có kế hoạch trước sau. Cổ là đổ nát, rất xấu mà thoán từ khen là tốt, chỉ vì đổ nát thì phải làm lại, canh tân, mà canh tân là điều rất tốt. Không có gì suy cực mà không thịnh lên, tới lúc cùng mà không bắt đầu trở lại.

19. Quẻ Địa Trạch Lâm

Quẻ Địa Trạch Lâm là quẻ số 19 trong Kinh dịch, hay còn gọi là quẻ Lâm.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)
Địa Trạch Lâm
Địa Trạch Lâm

Quẻ có nghĩa là quân tử dạy dân, che chở, bao bọc cho dân vô bờ bến. Trên là Đoài có đất, đất tới sát nước nên gọi là Lâm (tới gần). Hào 2 cương trung ứng với hào 5 nhu trung, nhân sự có phần vui vẻ, cũng hanh thông nữa.

Tuy nhiên, khuyên rằng trong cảnh hanh thông đừng nên phóng túng mà nên giữ vững chính đạo. Nếu không thì đến tháng 8 (hoặc 8 tháng nữa) sẽ hung.

Đất tới sát chằm thì có cái tượng quân tử tới dân, giáo hóa dân không bao giờ thôi, bao dung, giữ gìn cho dân.

20. Quẻ Phong Địa Quan

Quẻ Phong Địa Quan là quẻ thứ 20 trong Kinh dịch, hay còn gọi là quẻ Quan.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Tốn (Gió)
Quẻ Phong Địa Quan
Quẻ Phong Địa Quan

Quẻ Lâm là lớn, vật gì đến lúc lớn thì mới đáng biểu thị cho người ta thất, cho nên sau quẻ Lâm là quẻ Quan – xem xét.

Theo tượng quẻ, Tốn ở trên, Khôn ở dưới là gió thổi trên đất, tượng trưng cho sự cổ động khắp mọi loài, hoặc xem xét (quan) khắp mọi loài. Thêm nữa, hai hào dương ở trên, bốn hào âm ở dưới, là dương biểu thị (quán) cho âm; âm trông (quan) vào dương mà theo.

Hào 5 ở trong quẻ ở ngôi chí tôn, có đức dương cương, trung chính, chính là người cho thiên hạ trông vào mà cảm hóa theo. Người đó nên coi đạo trời lẳng lặng vậy mà bốn mùa vận hành không sai, mà lấy lòng chí thành làm gương cho dân, dạy dân, dân sẽ không ai không phục.

Quẻ Quan này khuyên người trên nêu gương cho dưới và người dưới noi gương người trên; nhưng trẻ con và tiểu nhân thì nhiều khi chưa biết noi gương.

21. Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp

Quẻ này hay còn gọi là quẻ Phệ Hạp. là quẻ số 21 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Ly (Hỏa)
Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp
Quẻ Hỏa Lôi Phệ Hạp

Người ta lý giải rằng, tình và lý có chỗ khả quan rồi sau mới hợp được nhau, nhưng muốn cho hợp nhau thì trước hết phải trừ sự ngăn cách. Vì thế, sau quẻ Quan tới quẻ Phệ Hạp. Phệ là cắn, là trừ (sự ngăn cách), hạp là hợp.

Căn để hợp lại, như vậy là hanh thông, dùng vào việc hình ngực thì có lợi. Quẻ Phệ Hạp này nói về việc hình ngục.

Hào sơ và hào trên cùng là hai vạch liền, tượng như hàm trên và hàm dưới, ở giữa có 3 vạch đứt, là miệng há ra, xen vào một vạch liền như một cái quẻ cản ngang miệng, làm dãn cách hai hàm răng. Phải cắn gãy, trừ nó đi rồi hai hàm mới hợp lại được với nhau.

Trong xã hội, kẻ gián cách đó là bọn gian tà, sàm nịnh bưng bít kẻ trên người dưới mà trên không thông tới dưới, dưới không đạt tới trên. Cho nên phải dùng hình ngục để trừ chúng. Hình ngục muốn có kết quả thì phải vừa uy, vừa sáng suốt. Nội quái Chấn là uy; ngoại quái Ly là sáng suốt.

Hào 5 là hào làm chủ trong quẻ, ở ngôi cao, âm nhu mà đắc trung, là có ý khuyên dùng hình ngục tuy phải uy, phải cương, nhưng vẫn nên có nhu một chút. Nếu chỉ có cương thì hóa ra tàn khốc, hiếu sát.

Về quẻ này, đại ý khuyên rằng:

  • Người xử hình phải sáng suốt trước hết, cương quyết mà cũng cần có đức nhu (để bớt cương đi), có chút từ tâm và luôn luôn phải giữ đạo chính, thận trọng.
  • Hào 4 tốt vừa cương vừa nhu, có tài có địa vị. Nên răn đe dân từ khi dân mới mắc phải tội nhỏ, nếu không dân sẽ quen làm bậy.

22. Quẻ Sơn Hỏa Bí

Quẻ Sơn Hỏa Bí hay còn gọi là quẻ Bí, là quẻ thứ 22 trong Kinh Dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)
Quẻ Sơn Hỏa Bí
Quẻ Sơn Hỏa Bí

Quẻ nói về trang sức, sửa sang, rõ ràng. quang minh. Đám đông hợp lại với nhau thì phải có trật tự, uy nghi, văn vẻ, cho nên tiếp theo Phệ Hạp là quẻ Bú (văn vẻ, sáng sủa, trang sức).

Trang sức văn vẻ thì hanh thông, làm việc gì mà chỉ nhờ ở trang sức thì lợi bé nhỏ thôi.

Trên núi, dưới lửa, lửa chiếu sáng mọi vật ở trên núi, như vậy làm cho núi đẹp lên, như trang trí những món trang sức cho núi.

Trong nội quái (vốn là quẻ đơn Càn) hào 2, âm, vốn ở quẻ đơn Khôn, thay vào hào 2 dương của quẻ đơn Càn, thành quẻ đơn Ly, như vậy là tô điểm cho quẻ đơn Càn. Trong ngoại quái (vốn là quẻ đơn Khôn) hào trên cùng vốn ở quẻ đơn Càn, lại thay hào trên cùng của quẻ đơn khôn, thành quẻ đơn Cấn.

Nói cách khác, vắn tắt mà không sai mấy thì nội quái có một hào âm như trang sức cho hai hào dương, còn ngoại quái có một hào dương trang sức cho hai hào âm, vì vậy mà gọi là quẻ Bí: trang sức.

Từ đó rút ra, điều gì cũng vậy, có chất, tinh thần, mà lại thêm văn, hình thức thì tốt còn nếu như chỉ nhờ trang sức mà thành công thì lợi ít.

Đại ý quẻ Bí này là có văn vẻ, có trang sức mới là tốt nhưng nên trọng văn hơn, lấy chất làm thể, lấy văn làm dụng mà không nên quá màu mè.

Lời khuyên khi rút phải quẻ này là việc chính trị nhỏ thì dùng trang sức được; còn việc quan trọng như phán đoán hình ngục thì đừng nên quả quyết, tô điểm thêm.

23. Quẻ Sơn Địa Bác

Quẻ này còn được gọi là quẻ Bác, là quẻ thứ 23 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)
Quẻ Sơn Địa Bác
Quẻ Sơn Địa Bác

Quẻ Bí có Bí là trang sức, khi trau dồi tới cực điểm thì món hết. Chính bởi vậy mà sau quẻ Bí thì sẽ tới quẻ Bác – mòn, bóc, lột bỏ cho tiêu mòn dần đi.

Bác – tiêu mòn, hễ tiến tới hành động thì không lợi. Theo tượng quẻ, năm hào âm chiếm chỗ của hào dương, âm tới lúc cực thịnh thì dương chỉ có một hào, sắp đến lúc tiêu tan. Do đó gọi quẻ này là quẻ Bác. Lão tử khuyên rằng “đại trí nhược ngu, đại dũng nhược khiếp, đại xảo nhược chuyết (vụng)“ nghĩa là phải tạm giấu cái khôn, cái khéo, cái dũng của mình để được yên thân đợi chờ cơ hội.

Theo Thoán truyện, nên thuận đạo trời mà ngưng mọi hoạt động vì nội quái là Khôn, có nghĩa là thuận, ngoại quái là Chấn có nghĩa là ngưng.

Theo Đại tượng truyện thì chỉ xét quẻ mà đưa ra một nghĩa khác: ngoại quái là núi, nội quái là đất; núi ở trên đất, đất là nền móng của núi; đất có dày thì núi mới vững; vậy người trên (nhà cầm quyền) phải lo cho dân an cư lạc nghiệp thì địa vị của người trên mới vững.

Quẻ này nói về thời âm thịnh dương suy, tiểu nhân tàn hại quân tử, tiểu nhân tuy rất đông, nhưng vẫn có một số (hào 3 và 5) hiểu đạo cải quá, đứng về phe quân tử, và khi xã hội lâm nguy thì ủng hộ quân tử. Người quân tử mới đầu chỉ nên im hơi lặng tiếng mà chờ thời, chuẩn bị cho lúc thịnh trở lại.

24. Quẻ Địa Lôi Phục

Quẻ này gọi là quẻ Phục là quẻ thứ 24 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)
Quẻ Địa Lôi Phục
Quẻ Địa Lôi Phục

Quẻ Phục – đạo tiểu nhân thịnh cực thì phải tiêu, đạo quân tử suy cực thì lại thịnh lần. Phục là trở lại, hanh thông. Ra vào không gặp tai nạn, bạn bè sẽ lần lượt tới, không lầm lỗi.

Khí dương bây giờ trở lại, cho nên hanh thông. Người quân tử (dương) ra vào tự do, không bị tai nạn, rồi sẽ có hào dương khác kéo tới. Sáu quẻ dương cứ tăng lần. đó là vận phản phục của trời đất, cứ bảy ngày thì trở lại.

Giảng thêm, sở dĩ ra vào không bị tai nạn, bạn bè kéo tới, không còn lầm lỗi, vì tượng của quẻ: nội quái Chấn là động, ngoại quái Khôn là thuận; hoạt động mà thuận theo đạo trời thì tốt. Cái đạo của trời đó là tĩnh lâu rôi thì động, ác nhiều rồi thì thiện, có vậy vạn vật mới sinh sôi nẩy nở. Xem quẻ Phục này thấy một hào dương bắt đầu trở lại, tức là thấy cái lòng yêu, nuôi dưỡng vạn vật của trời đất (kiến thiên địa chí tâm).

Quẻ này xét về sự sửa lỗi để trở về đường chính. Tốt nhất là hạng người tự nhận thấy lỗi rồi sửa liền, không mắc phải lần nữa, rồi tới hạng ở gần người tốt, mà bắt chước vui vẻ làm điều nhân, nghĩa; sau tới hạng có đức dày trở lại điều thiện, hạng ở giữa kẻ xấu mà một mình theo đạo; hạng không bền chí, giữ điều thiện được lâu, nhưng biết phục thiện thì cũng không lỗi.

25. Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng

Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng là quẻ thứ 25 trong Kinh dịch. Quẻ này còn được gọi là quẻ Vô Vọng.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)
Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng
Quẻ Thiên Lôi Vô Vọng

Đã trở lại thiên lý, chính đạo rồi thì không làm càn nữa cho nên sau quẻ Phục và quẻ Vô Vọng – càn, bậy.

Không càn bậy thì rất hanh thông, hợp với chính đạo thì có lợi. Cái gì không hợp với chính đạo thì có hại, có lỗi hành động thì không có lợi.

Tượng quẻ này: nội quái là Chấn (hành động), ngoại quái là Càn (Trời), hành động mà hợp với lẽ trời thì không càn bậy thì hanh thông có lợi.

Nói thêm, nội quái nguyên là quẻ Khôn mà hào 1 âm biến thành dương, thành quẻ Chấn. Thế là dương ở ngoài tới làm nội quái, mà cũng làm chủ cả quẻ vô vọng, vì ý chính trong Vô vọng là: động, hành động. Động mà cương kiên như ngoại quái Càn, tức là không càn bậy.

Quẻ này cũng nhấn mạnh vào lẽ tùy thời. Cả 6 hào đều là “vô vọng” cả, không càn bậy mà tùy thời, có lúc hoạt động thì tốt như hào 1, 2; có lúc lại nên thản nhiên, chẳng làm gì cả, như hào 5, có lúc không nên hành động như hào 4 (nếu hoạt động thì bị họa) và như hào trên cùng.

26. Quẻ Sơn Thiên Đại Súc

Quẻ Sơn Thiên Đại Súc còn được gọi là quẻ Đại Súc, là quẻ thứ 26 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)
Quẻ Sơn Thiên Đại Súc
Quẻ Sơn Thiên Đại Súc

Mình không có càn bậy (Vô vọng) rồi bản thân mới có thể chứa được nhiều tài, đức, hoài bão, nên sau quẻ vô vọng, tới quẻ Đại súc. Chữ súc trong quẻ này cũng là chữ súc trong quẻ Phong thiên tiểu súc, có ba nghĩa: nhóm chứa, nuôi nấng, ngăn lại.

Trên là núi, dưới là trời, núi mà chứa được trời thì sức chứa của nó thật lớn, cho nên gọi là Đại súc. Nói về bậc quân tử thì phải “chứa” tài đức, nghĩa là tu luyện cho tài đức uẩn súc; trước hết phải cương kiện như quẻ Càn, phải rất thành thực, rực rỡ (có văn vẻ) như quẻ Cấn, mà những đức đó phải mỗi ngày một mới, nhật tân kì đức (Thoán truyện); phải biết cho đến nơi đến chốn, làm cho đến nơi đến chốn, đủ cả tri lẫn hành (đại tượng truyện).

Người nào “uẩn súc” được như vậy thì được quốc gia nuôi, và khi xã hội gặp gian truân thì cứu được (vượt qua sông lớn), vì ứng với trời (như hào 5 ở vị cao ứng với hào 2 trong quẻ Càn là trời).

Quẻ này Thoán từ nói về sự súc tích tài đức, mà Hào từ lại xét cách ngăn cản kẻ hung hãn. Hai hào có ý nghĩa nhất là 4 và 5: muốn ngăn thì phải ngăn từ khi mới manh nha; và muốn diệt ác thì phải diệt từ gốc, tìm nguyên nhân chính mà trừ thì mới không tốn công, kết quả chắc chắn.

✅ Kinh dịch vốn là một bộ môn tinh hoa bắt nguồn từ các quốc gia châu Á như Trung Quốc hay Việt Nam, để dự đoán sự biến chuyển thiên của vạn vật. Bộ môn này được lưu truyền đến ngày nay, con người thường tìm đến quẻ dịch mỗi khi cần đưa ra quyết định về một việc lớn nhỏ, đi xa, thậm chí về ma chay hiếu hỉ. Như vậy, phần lớn ứng dụng phổ biến của Kinh Dịch mang tính thời điểm ngắn hạn.

✅ Về dài hạn, bên cạnh việc xem xét quẻ dịch thì các bạn có thể dùng thêm các đồ vật phong thủy mang lại bình an và may mắn. Hãy đặt mua ngay qua đường dẫn dưới đây. 

[bi_ux_products cat=”632,674,631″]

27. Quẻ Sơn Lôi Di

Quẻ Sơn Lôi Di hay còn gọi là quẻ Di, là quẻ số 27 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)
Quẻ Sơn Lôi Di
Quẻ Sơn Lôi Di

Di có hai nghĩa: nuôi nấng và cái cằm. Nhìn hình quẻ, chúng ta thấy như cái miệng mở rộng, hai nét liền ở trên và dưới như hai cái hàm, toàn bộ gợi cho ta ý cái cằm (thay cái mép) lại gợi cho ta sự ăn uống để nuôi sống.

Nuôi tinh thần hay thể chất, cũng phải hợp chính đạo thì mới tốt. Xem cách nuôi người và tự nuôi mình thì biết tốt hay xấu. Từ đó có thể suy rộng ra, trời đất khéo nuôi vạn vật mà vạn vật sinh sôi nảy nở về mọi mặt; thánh nhân dùng những người hiền giúp mình trong việc nuôi dân chúng; cái đạo nuôi nấng lớn như vậy đó.

Đại tượng truyện thêm ý rằng, theo cái tượng của quẻ, thì dưới núi có tiếng sấm, dương khí bắt đầu phát mà vạn vật trong núi được phát triển như vậy là trời đất nuôi vật. Người quân tử tự nuôi mình thì phải cẩn thận về lời nói để nuôi cái đức, và tiết độ về ăn uống để nuôi thân thể.

Về quẻ này, ba hào cuối đều có nghĩa là nuôi về tinh thần, giúp đỡ dân chúng nên đều được “cát” hết. Ba hào đầu có nghĩa là nhờ người nuôi thể xác của mình, cho nên đều xấu.

28. Quẻ Trạch Phong Đại Quá

Quẻ này còn được gọi là quẻ Đại Quá, là quẻ thứ 28 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Đoài (Đầm)
Quẻ Trạch Phong Đại Quá
Quẻ Trạch Phong Đại Quá

Có thể hiểu rằng, có bồi dưỡng tài đức thì sau mới làm được việc lớn quá (rất lớn), phi thường. Chữ “đại quá” có hai cách hiểu: Phần dương trong quẻ tới 4 (phần âm chỉ có hai) mà dương có nghĩa là lớn (âm là nhỏ); vậy đại quá có nghĩa là phần dương nhiều quá; – nghĩa nữa là (đạo đức công nghiệp) lớn quá.

Nhìn hình của quẻ, bốn hào dương ở giữa, 2 hào âm hai đầu, như cây cột, khúc giữa lớn quá, ngọn và chân nhỏ quá, chống không nổi, phải cong đi. Tuy vậy, hai hào dương 2 và 5 đều đắc trung, thế là cương mà vẫn trung; lại thêm quẻ Tốn ở dưới có nghĩa là thuận, quẻ Đoài ở trên có nghĩa là hòa, vui, thế là hòa thuận, vui vẻ làm việc, cho nên bảo là tiến đi (hành động) thì được hanh thông.

Người quân tử trong quẻ này phải có đức độ, hành vi hơn người, cứ việc gì hợp đạo thì làm, dù một mình đứng riêng, trái với thiên hạ, cũng không sợ (độc lập bất cụ); nếu là việc không hợp đạo thì không thèm làm, dù phải trốn đời, cũng không buồn (độn thế vô muộn).

Tên quẻ là Đại quá (lớn quá), mà Hào từ lại ghét những người quá cương, (hào 3, 5) quá nhu như hào trên cùng tuy không có lỗi, nhưng cũng cho là xấu. Vây Kinh Dịch có ý trọng đức trung (vừa cương vừa nhu) hơn cả.

29. Quẻ Thuần Khảm

Quẻ Thuần Khảm hay quẻ Khảm là quẻ thứ 29 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)
Quẻ Thuần Khảm hay quẻ Khảm
Quẻ Thuần Khảm hay quẻ Khảm

Tập Khảm có nghĩa là trùng khảm, hai lần Khảm. Nhìn hình quẻ Khảm ta thấy một hào dương bị hãm vào giữa hai hào âm, cho nên Khảm có nghĩa là hãm, là hiểm.

Ta lại thấy ở giữa đặc (nét liền), ngoài rỗng (nét đứt), trái với quẻ Ly, như cái miệng lò; chỗ rỗng đó là chỗ không khí vô để đốt cháy than, củi, cho nên Ly là lửa. Khảm trái với Ly, chỗ nào trống thì nước chảy vào; Ly là lửa thì Khảm là nước. Nguy hiểm không gì bằng nước sâu, không cẩn thận thì sụp xuống, chết đuối, nên bảo nước là hiểm.

Xét theo ý nghĩa thì hào dương ở giữa, dương là thực, thành tín, vì vậy bảo là Khảm có đức tin, chí thành (hữu phu) ở trong lòng, nhờ vậy mà hanh thông. Gặp thời hiểm, có lòng chí thành thì không bị tai nạn, hành động thì được trọng mà còn có công nữa. Các công dụng của hiểm nếu hợp thời thì cực lớn.

Đại tượng truyện khuyên rằng nên theo cái đức chảy hoài không ngừng của nước mà giữ bền đức hạnh mà tu tĩnh không ngày nào quên.

Quẻ này là cái tượng quân tử bị tiểu nhân bao vây, chỉ có hai hào là tạm tốt (hào 2 và 5), còn các hào khác đều xấu. Lời khuyên quan trọng nhất gặp thời hiểm, phải giữ lòng chí thành, và biết tòng quyền.

30. Quẻ Thuần Ly

Quẻ Thuần Ly còn được gọi là quẻ Ly, là quẻ thứ 30 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Ly (Hỏa)
Quẻ Thuần Ly
Quẻ Thuần Ly

Khảm là hãm, hãm thì phải có chỗ nương tựa, cho nên sau quẻ Khảm tới quẻ Ly. Ly là lệ, mà cũng có nghĩa là sáng.

nét ở giữa dứt, tức là ở giữa rỗng, rỗng thì sáng. Lửa sáng, mặt trời sáng, cho nên Ly có có tượng là lửa, là mặt trời. Sau cùng Ly còn có nghĩa là rời ra, như chia Ly.

Dựa vào chỗ chính đáng, chẳng hạn vào người quân tử thì hanh thông. Dựa vào người thì phải sáng suốt, và thuận theo người, vậy phải nuôi đức thuận, đức của con bò cái (loài này dễ bảo nhất) thì mới tốt.

Ly còn nghĩa là sáng. Quẻ thuần Ly, trên dưới đều là Ly, sáng quá, sáng suốt quá, tỏ mình hơn người thì ít người ưa, cho nên phải giấu bớt cái sáng đi mà trau giồi đức thuận.

Thoán truyện bảo phải có đức trung chính nữa như hào 2 và hào 5 (hào này chỉ trung thôi, nhưng đã đắc trung thì cũng ít nhiều đắc chính) như vậy mới cải hóa được thiên hạ, thành văn minh.

31. Quẻ Trạch Sơn Hàm

Quẻ Trạch Sơn Hàm là quẻ thứ 31 trong Kinh dịch, hay còn được gọi là quẻ Hàm.

  • Nội quái là Cấn
  • Ngoại quái là Đoài
Quẻ Trạch Sơn Hàm
Quẻ Trạch Sơn Hàm

Đoài là thiếu nữ ở trên, Cấn là thiếu nam ở dưới (1). Cảm nhau thân thiết không gì bằng thiếu nam, thiếu nữ. Cảm nhau thì tất hanh thông.

Thiếu nữ ở trên, thiếu nam phải hạ mình xuống cạnh thiếu nữ; hồi mới gặp nhau thì phải vậy; chứ nếu thiếu nữ cầu cạnh thiếu nam thì là bất chính, không tốt. Cho nên thoán từ bảo phải giữ đạo chính mới có lợi. Hai bên giữ đạo chính cả thì cưới vợ chắc tốt lành.

Khuyên rằng, trai gái cảm nhau phải chân thành, tự nhiên, vì nết, vì tài thì mới tốt; mà khi cảm nhau rồi phải tự chủ, giữ lễ, đừng để đến nỗi hóa ra bất chánh. Coi đạo âm dương giao cảm mà sinh hóa vạn vật, thánh nhân chí thành mà cảm được thiên hạ, thì thấy được chân tình của thiên địa, vạn vật. Đạo cảm nhau quả là quan trọng. Đạo cảm người phải chí thành, tự nhiên, không dùng trí tính toán, nhưng cũng không nên có tư ý, tư tâm.

32. Quẻ Lôi Phong Hằng

Hay còn gọi là quẻ Hằng, là quẻ thứ 32 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Chấn (Sấm)
Quẻ Lôi Phong Hằng
Quẻ Lôi Phong Hằng

Hằng là hanh, lợi trinh, vô cữu. Giữ được chính đạo thì có lợi, tiến hành việc gì cũng thành công. Cương (Chấn) ở trên, nhu (Tốn) ở dưới, sấm gió giúp sức nhau, Chấn động trước, Tốn theo sau, thế là thuận đạo. Lại thêm ba hào âm đều ứng với ba hào dương, cũng là nghĩa thuận nữa, cả hai bên đều giữ được đạo chính lâu dài.

Quẻ này quan trọng ở hào 5: đạo phu xướng phụ tùy của Trung Hoa thời xưa. Một lời khuyên là theo lý mà làm, đừng hành động càn.

33. Quẻ Thiên Sơn Độn

Quẻ Thiên Sơn Độn còn gọi là quẻ Độn, là quẻ thứ 33 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Cấn (Núi)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)
Quẻ Thiên Sơn Độn
Quẻ Thiên Sơn Độn

Quẻ Độn nghĩa là tiểu lợi trinh. Trốn lánh đi thì hanh thông; trong các việc nhỏ, giữ được điều chính thì có lợi.

Trên là trời, dưới là núi: ở chân núi thì thấy đỉnh núi là trời, nhưng càng lên càng thấy trời lùi lên cao nữa, tới đỉnh núi thấy trời mù mịt tít vời, như trời trốn lánh núi, cho nên đặt tên quẻ là Độn.

Quẻ này hai hào âm ở dưới đẩy bốn hào dương lên trên, có cái tượng âm (tiểu nhân) mạnh lên, đuổi dương (quân tử) đi, trái hẳn với quẻ Lâm. Độn thuộc về tháng 5, Lâm thuộc về tháng 12.

Quẻ này có hanh thông vì trong quẻ có hào 5, dương, ứng với hào 2, âm; cả hai đều trung chính. Vậy ở thời đó, chưa nên trốn hẳn, nên tính xem việc nào còn làm được thì làm, tùy cơ ứng biến, cho nên Thoán truyện bảo lẽ tùy thời trong quẻ Độn này rất quan trọng.

Đại tượng truyện khuyên trong thời này quân tử nên xa lánh tiểu nhân, cứ giữ vẻ uy nghiêm, đừng dữ dằn với chúng quá.

34. Quẻ Lôi Thiên Đại Tráng

Quẻ này còn gọi là quẻ Đại Tráng, là quẻ thứ 34 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Càn (Trời)
  • Ngoại quái là Chấn (Sấm)
Quẻ Lôi Thiên Đại Tráng
Quẻ Lôi Thiên Đại Tráng

Quẻ này có 4 nét dương ở dưới, hai nét âm ở trên; dương đã lớn mạnh mà âm sắp bị diệt hết. Quẻ Càn ở trong, quẻ Chấn ở ngoài, thế là có đức dương cương mà động. Lại có thể giảng là sấm vang động ở trên trời, tiếng rất lớn, vang rất xa.

Lớn mạnh thì dĩ nhiên là tốt rồi, nhưng thường tình, gặp thời thịnh, người ta kiêu căng, làm điều bất chính, cho nên thoán từ phải dặn: giữ điều chính, lúc đắc ý nghĩ đến lúc thất ý, thì mới có lợi.

Đại tượng truyện bảo muốn giữ điều chính thì đừng làm cái gì phi lễ. (Quân tử phi lễ phất lí).

Bàn thêm, có chính thì mới có lớn (đại), chính đại là cái “tinh” của trời đất, tức cái công dụng hiện ra ngoài trời đất.. Chúng ta để ý, quẻ Phục mới có một nét dương hiện ở dưới cùng, cho nên bảo chỉ thấy cái lòng của trời đất. Quẻ Đại tráng này, dương đã lớn, được 4 nét rồi, thì thấy được cái tình của trời đất.

Quẻ này là thời âm suy, dương lớn mạnh lên, đáng lẽ tốt; mà sáu hào không có hào nào thật tốt, chỉ tốt với điều kiện là giữ đạo chính của quân tử; cổ nhân khuyên muốn gặp vận hội tốt thì phải coi chừng hoạ nấp ở đâu đó, nên đề phòng.

35. Quẻ Hỏa Địa Tấn

Quẻ Hỏa Địa Tấn hay còn gọi là quẻ Tấn, là quẻ thứ 35 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Ly (Hỏa)
Quẻ Hỏa Địa Tấn
Quẻ Hỏa Địa Tấn

Tấn dịch là tiến lên, bậc hầu có tài trị nước được thưởng ngựa nhiều lần, bạn ngày được tiếp tới 3 lần.

Quẻ này có tượng mặt trời (ly) lên khỏi mặt đất (Khôn), càng lên cao càng sáng, tiến mạnh. Lại có thể hiểu là người dưới có đức thuận (Khôn) dựa vào bậc trên có đức rất sáng suốt. Cho nên ví với một vị hầu có tài trị dân (Khang hầu) được vua tín nhiệm, thưởng (tích) ngựa nhiều lần, nội một ngày mà được vua tiếp tới ba lần.

Đại tượng truyện khuyên người quân tử xem tượng quẻ Tấn này nên tự làm cho đức của mình càng ngày càng sáng như mặt trời hiện lên khỏi mặt đất rồi tiến mãi lên.

36. Quẻ Địa Hỏa Minh Di

Quẻ Địa Hỏa Minh Di hay còn gọi là quẻ Minh Di, là quẻ thứ 36 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)
Quẻ Địa Hỏa Minh Di
Quẻ Địa Hỏa Minh Di

Tiến lên thì tất có lúc bị thương tổn, cho nên sau quẻ Tấn tiếp tới Minh di. Di [夷] nghĩa là thương tổn.

Quẻ này ngược với quẻ Tấn ở trên; mặt trời (ly) lặn xuống dưới đất (Khôn) ánh sáng bị tổn hại, tối đi (Minh di).

Người quân tử ở thời u ám này, gặp nhiều gian nan, chỉ có cách giữ đức chính trinh của mình thì mới có lợi. Muốn vậy thì ở trong lòng giữ đức sáng mà ở ngoài thì nhu thuận để chống với hoạn nạn như tượng của quẻ Ly là sáng văn minh ở nội quái, Khôn là nhu thuận ở ngoại quái.

Quẻ này khuyên người quân tử ở thời hắc ám quá thì có thể bỏ nhà, nước mà đi; hoặc muốn ở lại thì giấu sự sáng suốt của mình mà giữ vững đạo chính để chờ thời.

37. Quẻ Phong Hỏa Gia Nhân

Quẻ này còn được gọi là quẻ Gia Nhân, là quẻ thử 37 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Tốn (gió)
Quẻ Phong Hỏa Gia Nhân
Quẻ Phong Hỏa Gia Nhân

Di là bị thương; hễ ra ngoài bị thương thì trở về nhà, cho nên sau quẻ Minh di tới quẻ Gia nhân. Gia nhân là người trong một nhà. Người trong nhà: hễ đàn bà mà chính đáng thì có lợi.

Nội quái là Ly, sáng suốt; ngoại quái là Tốn thuận. Ở trong thì suốt, xử trí không hồ đồ, ở ngoài thì thuận, như vậy việc tề gia sẽ tốt đẹp. Nói rộng ra việc nước cũng vậy, vì người trong một nước lấy nước làm nhà; mà việc thế giới cũng vậy, vì mỗi nước như một người, cả thế giới như một nhà.

Quẻ này, nội quái Ly là trung nữ, ngoại quái Tốn là trưởng nữ (1); hào 2, âm làm chủ nội quái, hào 4, âm làm chủ ngoại quái, hai hào đó đều đắc chính cả, cho nên nói đàn bà mà chính đáng thì có lợi.

Tuy chỉ nói “nữ” trinh thôi, nhưng phải hiểu nam cũng cần chính đáng nữa, vì nếu nam không chính đáng thì nữ làm sao chính đáng được.

Đại tượng truyện khuyên: coi tượng quẻ này, gió từ trong lửa phát ra (điều này khoa học đã giảng rồi), người quân tử hiểu rằng trong thiên hạ, việc gì ở ngoài cũng phát từ ở trong; muốn trị nước thì trước phải trị nhà, muốn trị nhà thì trước phải tu thân; mà việc tu thân cốt ở hai điều: nói phải có thực lý; thực sự, không nói suông, vu vơ; làm thì thái độ phải trước sao sau vậy, triệt để từ đầu tới đuôi, đừng thay đổi hoài (quân tử dĩ ngôn hữu vật, như hạnh hữu hằng).

38. Quẻ Hỏa Trạch Khuê

Quẻ Hỏa Trạch Khuê còn được gọi là quẻ Khuê, là quẻ thứ 38 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Ly (Hỏa)
Quẻ Hỏa Trạch Khuê
Quẻ Hỏa Trạch Khuê

Gia đạo đến lúc cùng thì có người trong nhà chia lìa, chống đối nhau, cho nên sau quẻ Gia nhân tới quẻ Khuê. Khuê nghĩa là chống đối, chia lìa.

Đoài (chằm) ở dưới Ly (lửa). chằm có tính thấm xuống, lửa có tính bốc lên, trên dưới không thông với nhau mà càng ngày càng cách xa nhau. Quẻ này xấu nhất trong Kinh dịch, ngược hẳn lại với quẻ Cách. Chỉ làm những việc nhỏ cá nhân thì hoạ may được tốt.

Đoài là thiếu nữ, Ly là trung nữ, hai chị em ở một nhà mà xu hướng trái nhau (em hướng về cha mẹ, chị hướng về chồng), chí hướng khác nhau, cho nên gọi là khuê. Tuy nhiên Ðoài có đức vui, Ly có đức sáng, thế là hòa vui mà nương tựa vào đức sáng. Lại thêm hào 5, âm nhu mà tiến lên ở ngôi cao, đắc trung mà thuận ứng với hào 2, dương dương ở dưới, cho nên bảo việc nhỏ thì tốt.

Trong vũ trụ, một ở trên cao, một ở dưới thấp, vốn là khác nhau vì thế mà chia lìa, vậy mà công hóa dục vạn vật là của chung trời đất. Trai gái, một dương, một âm, vẫn là trái nhau, vậy mà cảm thông với nhau.

Đại tượng truyện khuyên rằng ở trong chỗ đồng nên có dị, Ví dụ người quân tử bình thường hành động cũng hợp thiên lý, thuận nhân tình như mọi người (đó là đồng); nhưng gặp thời loạn, đại chúng làm những việc trái với thiên lý thì không ùa theo họ, mà tách riêng ra, cứ giữ thiên lý, dù bị chê bai, bị gian khổ cũng chịu (đó là dị). Vậy không nhất định là phải đồng mới tốt, dị (chia lìa) cũng có lúc tốt.

Quẻ Khuê là quẻ xấu trong Kinh Dịch nhưng kết quả lại không có gì xấu. Sáu hào thì có ba hào “vô cửu”, một hào “hối vong” một hào “hữu chung” (hòa hợp với nhau), nhất là hào cuối lại “cát nữa. Như vậy thì trong cái hoạ vẫn có mầm phúc.

39. Quẻ Thủy Sơn Kiển

Quẻ này còn được gọi là quẻ Kiển, là quẻ thứ 39 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là cấn (Núi)
  • Ngoại quái là  Khảm (Nước)
Quẻ Thuỷ Sơn Kiển
Quẻ Thuỷ Sơn Kiển

Ở thời chia lìa chống đối thì tất gặp nỗi gian nan, hiểm trở, cho nên sau quẻ Khuê tới quẻ Kiển (gian nan).

Trước mặt là sông (Khảm), sau lưng là núi(Cấn), tiến lui đều gian nan hiểm trở nên gọi là quẻ Kiển. Phải bỏ đường hiểm trở mà kiếm đường bằng phẳng dễ đi, ở hướng Tây Nam, hướng quẻ Khôn, đừng đi hướng đông Bắc, hướng quẻ Cấn. Dĩ nhiên chúng ta không nên hiểu đúng từng chữ Tây Nam và Đông Bắc, chỉ nên hiểu ý thôi.

Ở thời gian nan này, phải nhờ có người có tài, đức (đại nhân) giúp cho thì mới thoát nạn (lợi kiến đại nhân), và phải bền giữ đạo chính.

Đại tượng truyện khuyên phải tự xét minh mà luyện đức. Gặp thời gian nan, nên thận trọng đợi thời. Riêng vị nguyên thủ phải tìm người tốt giúp mình, liên kết mọi tầng lớp để cùng mình chống đỡ.

40. Quẻ Lôi Thủy Giải

Quẻ Lôi Thủy Giải là quẻ thứ 40 trong Kinh dịch, còn được gọi là quẻ Giải.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Chấn (Sấm)

Tượng quẻ là âm dương giao hoà với nhau, sấm (Chấn) động và mưa (Khảm) đổ, bao nhiêu khí u uất tan hết, cho nên gọi là Giải. Cũng có thể giảng: Hiểm (Khảm) sinh ra nạn, nhờ động (Chấn) mà thoát nạn nên gọi là Giải.

Khi mọi hoạn nạn đã tan rồi, thì dân chỉ mong an cư lạc nghiệp, người trị dân nên có chính sách khoan đại, giản dị (Tây Nam thuộc Khôn là đường lối khoan đại, bình dị); đừng đa sự, cứ khôi phục trật tự cũ cũng đủ tốt rồi. Tuy nhiên cũng phải trừ những tệ đã gây ra những hoạn nạn trước kia, cũng phải sửa đổi cho sự bình trị được lâu dài, công việc đó nên làm cho mau xong (vẫn là ý đừng đa sự) thì tốt.

Đại tượng truyện khuyên sau khi giải nạn rồi, nên tha tội cho những kẻ lầm lỗi trước, nếu không tha được thì cũng nên giảm án cho nhẹ đi (quân tử dĩ xá quá, hựu tội).

Ý nghĩa quẻ này theo như được giảng: dẹp loạn xong thì nên khoan hồng với kẻ lỡ lỗi lầm, đừng đa sự, chỉ cần khôi phục trật tự cũ, và củng cố nó bằng một số công việc, nhưng phải làm cho mau để khỏi phiền nhiễu dân.

Hào 3 cũng có một lời khuyên nên nhớ: giấu cất không kín đáo là dạy cho kẻ trộm vào lấy của nhà mình; trau giồi nhan sắc là dạy cho bọn tà dâm tới hiếp mình. (Mạn tàng hối đạo, dã dung hối dâm).

41. Quẻ Sơn Trạch Tổn

Là quẻ thứ 41 trong Kinh dịch còn được gọi là quẻ Tổn.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)
Quẻ Sơn Trạch Tổn
Quẻ Sơn Trạch Tổn

Khoan nới thì tất có điều sơ ý mà bị thiệt hại, cho nên sau quẻ Giải tới quẻ Tổn. Tổn là thiệt hại mà cũng có nghĩa là giảm đi.

Tổn: Hữu phu, nguyên cát, vô cữu, khả trinh, lợi hữu. Giảm đi: nếu chí thành thì rất tốt, không có lỗi, giữ vững được như vậy thì làm việc gì cũng có lợi. Nên dùng cách nào? (ví dụ) dùng hai cái bình (hay bát) đồ cúng thôi để dâng lên, cũng được.

Quẻ này nguyên là quẻ Thái, bớt ở nội quái Càn hào dương thứ 3 đưa lên thêm vào hào cuối cùng của quẻ Khôn ở trên, nên gọi là Tốn: bớt đi. Giảm đi, không nhất định là tốt hay xấu. Còn tùy mình có chí thành, không lầm lỡ thì mới tốt. Ví dụ việc cúng tế, cần lòng chí thành trước hết, còn đồ cúng không quan trọng, dù đạm bạc mà tâm thành thì cũng cảm được quỉ thần. Giảm đi như vậy để tiết kiệm, thì không có lỗi.

Thoán truyện khuyên phải biết tùy thời, hễ quá thì giảm đi cho được vừa phải. Đứng về phương diện tu thân, quẻ này có ý nghĩa khuyên quân tử nên giảm lòng giận và lòng dục đi (quân tử dĩ trừng phẫn, trất dục).

Đại ý quẻ này là Tổn chưa chắc đã xấu, ích (tăng) chưa chắc đã tốt; còn tùy việc tùy thời, hễ quá thì nên tổn để được vừa phải, thiếu thì nên ích, và mình nên chịu thiệt hại cho mình mà giúp cho người.

42. Quẻ Phong Lôi Ích

Quẻ Phong Lôi Ích là quẻ thứ 42 trong Kinh dịch. Quẻ này còn được gọi là quẻ Ích.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Tốn (Gió)
Quẻ Phong Lôi Ích
Quẻ Phong Lôi Ích

Tổn đến cùng rồi thì phải tăng lên, cho nên sau quẻ Tổn đến quẻ Ích. Ích là tăng lên, làm ích cho nhau.

Ích nghĩa là lợi hữu du vãng, lợi thiệp đại xuyên.

Quẻ này trái với quẻ Tốn, xét về tượng quẻ thì Sấm (Chấn) với Gió (Tốn) giúp ích cho nhau vì gió mạnh thì tiếng sấm đi xa, mà sấm lớn thì gió mới dữ. Vì vậy gọi là quẻ Ích. Mình ở địa vị cao mà giúp cho người ở thấp, càng làm càng có lợi, khó khăn gì rồi kết quả cũng tốt.

Xét hào 2 và hào 5, đều đắc trung đắc chính cả; lấy đạo trung chính mà giúp ích cho dân, dân sẽ vui vẻ vô cùng mà đạo càng sáng sủa. Tuy nhiên, tốt hay xấu còn tùy cách thức và tùy thời.

Đại tượng truyện khuyên rằng: thấy điều thiện thì tập làm điều thiện. Thấy mình có lỗi thì sửa lỗi.

43. Quẻ Trạch Thiên Quải

Quẻ Trạch Thiên Quải hay còn gọi là quẻ Quải, là quẻ thứ 43 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Càn (trời)
  • Ngoại quái là Đoài (Đầm)
Quẻ Trạch Thiên Quải hay còn gọi là quẻ Quải
Quẻ Trạch Thiên Quải hay còn gọi là quẻ Quải

Tăng lên đến cùng cực thì tới lúc tràn đầy, nứt vỡ nên sau quẻ Ích tới quẻ Quải. Quải có nghĩa là nứt vỡ, lại có nghĩa là quyết liệt.

Quải: Dương vu vương đình, phu hiệu. Hữu lệ, cáo tự ấp, bất lợi tức nhung, lợi hữu du vãng.

Chằm (Đoài) ở trên, trời (Càn) ở dưới, là nước chằm dân lên ngập trời, tất nhiên các đê ngăn nước phải nứt vỡ khắp nơi. Lại thêm 5 hào dương tiến lên, quyết tâm trừ một hào âm ở trên cùng. Vì hai lẽ đó mà quẻ này đặt tên là Quải.

Quẻ này thuộc về tháng 3, âm sắp tiêu hết, suy đến cực rồi. Tuy nhiên vẫn phải đề phòng, phải tuyên bố tội ác của tội nhân trước công chúng, rồi lấy lòng chí thành để ban lệnh. Vẫn có thể gặp nguy được (cổ nhân thật dè dặt! ) cho nên phải răn phe mình đoàn kết, hành động đàng hoàng, mà đừng nên chuyên dùng võ lực, vì ngoại quái là Đoài có nghĩa là hoà thuận, vui vẻ.

Đại tượng truyện khuyên nên ban phát lợi lộc cho dân, cũng do cái ý của ngoại quái là đoài: vui vẻ, thuận hoà.

44. Quẻ Thiên Phong Cấu

Quẻ này hay còn gọi là quẻ Cấu, là quẻ thứ 44 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Càn (Trời)
Quẻ Thiên Phong Cấu
Quẻ Thiên Phong Cấu

Quải là quyết, phán quyết; phán quyết xong rồi thì biết được lành hay dữ, tất có người để gặp gỡ, cho nên sau quẻ Quải tới quẻ Cấn (gặp gỡ).

Cấu: Nữ tráng, vật dụng thú nữ. Con gái cường tráng, đừng cưới (cũng có nghĩa là tiểu nhân đương lúc rất mạnh, đừng thân).

Quẻ này một hào âm mới sinh ở dưới (thuộc về tháng 5), đụng với 5 hào dương ở trên, cũng như một người con gái rất cường tráng, đụng với (Cấn) năm người con trái, chống được với 5 người còn trai, hào đó lại bất đắc chính (âm ở vị dương), như người con gái bất trinh, không nên cưới nó.

Quẻ Cấu này khuyên ta:

  • Phải chế ngự tiểu nhân (và tật của ta) từ khi nó mới xuất hiện hào 1).
  • Muốn chế ngự tiểu nhân thì nên có độ lượng bao dụng có đức trung chính như hào 2, hào 5); nếu quá cương (như hào 3) bất trung bất chính (như hào 4) thì tiểu nhân sẽ không phục mình.

45. Quẻ Trạch Địa Tụy

Quẻ này còn được gọi là quẻ Tụy, là quẻ thứ 45 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Khôn (Đất)
  • Ngoại quái là Đoài (Đầm)
Quẻ Trạch Địa Tuỵ
Quẻ Trạch Địa Tuỵ

Gặp nhau rồi thì thành bầy, thành bầy thi phải nhóm họp , cho nên sau quẻ Cấu tới quẻ Tụy (nhóm họp)

Chằm (Đoài) ở trên đất (Khôn), là nước có chỗ nhóm, tụ, cho nên gọi là quẻ Tụy. Nội quái là Khôn có tính thuận, ngoại quái là Đoài có nghĩa vui vẻ, hoà thuận; mà hào 5 ở trên được hào 2 ở dưới ứng trợ cho, tất nhóm họp được đông người, cho nên hanh thông, tốt.

Đại ý quẻ này khuyên khi nhóp họp nên có tinh thần hoà thuận vui vẻ như quẻ Khôn, quẻ Đoài, cất khí giới đi để ngừa những sự biến bất ngờ xảy ra. Nếu muốn họp người, lập một đảng chẳng hạn thì phải là bậc đại nhân: có địa vị cao, có tài, có đức, phải có lòng chí thành, một chủ trương chính đáng.

46. Quẻ Địa Phong Thăng

Còn được gọi là quẻ Thăng, Địa Phong Thăng là quẻ thứ 46 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Khôn (Đất)
Quẻ Địa Phong Thăng
Quẻ Địa Phong Thăng

Thăng nghĩa là rất hanh thông, phải dùng người có tài đức, không có gì là lo ngại, cứ tiến về phía trước thì tốt.

Tốn là gió mà cũng là cây. Ở đây hiểu là cây. Cây mọc ở dưới đất, mỗi ngày mỗi đâm lên cao, cho nên gọi là quẻ Thăng.

Cũng có thể hiểu: Khốn vôn là âm nhu mà tiến lên ngoại quái là vì thời tiến lên thì nên như vậy chứ bình thường thì dương mới thăng mà âm thì giáng. Tốn có tính nhún, khôn có tính thuận; lại thêm hào 5 âm có đức nhu và trung, ứng với hào 2 có đức dương cương, cho nên rất hanh thông. Phải dùng người có tài đức (hào 2) thì mới không có gì lo ngại. “Nam chinh” là tiến về phía trước mặt, chứ không có nghĩa là tiến về phía Nam.

Khuyên rằng xem quẻ này nên thuận đạo mà sửa đức, mỗi ngày một chút, lần lần sẽ rất cao (tích tiểu dĩ cao đại).

47. Quẻ Trạch Thủy Khốn

Quẻ Trạch Thủy Khốn còn gọi là quẻ Khốn, là quẻ thứ 47 trong Kinh Dịch.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Đoài (Đầm)
Quẻ Trạch Thủy Khốn còn gọi là quẻ Khốn
Quẻ Trạch Thủy Khốn còn gọi là quẻ Khốn

Khốn: Hanh thông. Chính đính như bậc đại nhân (có đức) thì tốt, không lỗi. Dù nói gì cũng không bày tỏ được lòng mình (không ai nghe mình).

Quẻ Khảm là dương ở cuối, quẻ đoài là âm ở trên , dương cương (quân tử) bị âm nhu (tiểu nhân) che lấp, cho nên gọi là Khốn. Lại thêm: nội quái một hào dương bị kẹt giữa hai hào âm; ngoại quái hai hào dương ở dưới một hào âm, cùng là cái tượng quân tử bị tiểu nhân làm khốn. Chằm (Đoài) ở trên mà Khảm (nước) ở dưới, nước trong chằm chảy xuống dưới, tiết mất hết, chằm sẽ khô, thành ra cái tượng Khốn.

Khảm là hiểm, đoài là hoà duyệt, vậy tuy gặp hiểm mà vẫn vui vẻ hanh thông. Hanh thông chỉ là đối với bậc đại nhân, có đức cương, trung, giữ đạo chính thôi; vì hạng người đó càng gặp cảnh khốn, tài càng được luyện; đức càng được trau, chí càng vững dù có phải hy sinh tính mệnh để thỏa chí nguyện cũng không ngại, thân tuy khốn mà vẫn vui vẻ, đạo của họ vẫn hanh thông, cho nên Hào từ cho là tốt, không có lỗi.

48. Quẻ Thủy Phong Tỉnh

Còn được gọi là quẻ Tỉnh, Thủy Phong Tỉnh là quẻ thứ 48 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)
Quẻ Thuỷ Phong Tỉnh
Quẻ Thuỷ Phong Tỉnh

Lên (Thăng) tới cùng thì bị khốn, mà té xuống dưới, cho nên sau quẻ Khốn tới quẻ Tỉnh (giếng, tức chỗ thấp hơn hết).

Tỉnh: Cải ấp bất cải tỉnh, vô táng vô đắc, vãng lai tỉnh tỉnh. Theo tượng quẻ, trên là nước (Khảm), dưới là gỗ (Tốn ở đây không hiểu là gió mà hiểu là cây, là đồ bằng gỗ – trỏ cái gàu), có nghĩa là thòng cái gàu xuống nước để múc lên.

Nước (Khảm) ở trên cây (Tốn), tức là nhựa (nước từ dưới đất theo thân cây lên) ở ngọn cây, cũng như mạch nước ở trong giếng, chảy ra, cho nên gọi là quẻ Tỉnh.

Quẻ này khuyên người quân tử nên coi tượng cái giếng mà nuôi dân và chỉ cho dân cách giúp đỡ lẫn nhau.

49. Quẻ Trạch Hỏa Cách

Quẻ Trạch Hỏa Cách còn gọi là quẻ Cách, là quẻ thứ 49 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Đoài (Đầm)
Quẻ Trạch Hỏa Cách
Quẻ Trạch Hỏa Cách

Nước giếng tích trữ lâu ngày, bụi cát và các vật dơ mỗi ngày mỗi nhiều, không còn trong sạch nữa, phải tát hết nước cũ để nước mạch mới chảy vào thay, cho nên sau quẻ Tỉnh tới quẻ Cách. Cách nghĩa là thay đổi, như trong từ ngữ cải cách, biến cách, cách mạng.

Cách: Dĩ nhật nãi phu, nguyên hanh lợi trinh. Hối vong. Phải lâu ngày người ta mới tin được; phải rất hanh thông, hợp chính đạo (thì người ta mới phục). Ðược vậy thì không phải ăn năn.

Theo tượng quẻ, chằm (Đoài) ở trên, lửa (Ly) ở dưới; lửa đốt thì nước cạn, nước xối vào thì lửa tắt; hai thứ đo tranh nhau thì có sự thay đổi, cho nên gọi là quẻ Cách. Thay cũ đổi mới là một việc khó, ngược với thói quen thủ cựu của con người, cho nên mới đầu người ta không tin, cho là đa sự. Muốn cho người ta tin thì phải một thời gian lâu để người ta thấy kết quả. Mà muốn có kết quả, sự cải cách phải hợp thời hợp chính đạo, phải sáng suốt, soi xét rạch ròi và có tính hoà duyệt thoả thuận với lòng người.

Sáu hào quẻ này diễn đúng những giai đoạn từ bước đầu khó khăn đến lúc cải cách thành công. Phải có đủ những điều kiện: hợp thời, hợp đạo, có địa vị, có tài đức, sáng suốt rất thận trọng (tính toán, sắp đặt kế hoạch kỹ lưỡng ba lần), có lòng chí thành, tính hoà duyệt, được nhiều người tin thì làm công việc cải cách lớn mới được. Cần nhất là được lòng tin, chí công vô tư.

50. Quẻ Hỏa Phong Đỉnh

Quẻ Hỏa Phong Đỉnh còn gọi là quẻ Đỉnh, là quẻ thứ 50 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Ly (Hỏa)
Quẻ Hỏa Phong Đỉnh
Quẻ Hỏa Phong Đỉnh

Ðỉnh: Nguyên cát, hanh. Nhìn hình của quẻ , ta thấy vạch đứt ở dưới cùng như cái chân vạc, ba vạch liền ở trên như cái thân vạc trong chứa thức ăn, vạch đứt ở trên nữa như hai tai vạc vạch liền ở trên cùng là cái đòn để khiêng vạc, vì vậy gọi là quẻ đỉnh.

Ở trên đã xét quẻ Tỉnh, về việc uống; ở đây là quẻ Đỉnh, về việc ăn. Cổ nhân trong việc nấu nướng, trước hết để tế Thượng đế, rồi để nuôi bậc thánh hiền. Tế Thượng đế thì cốt thành tâm, nuôi thánh hiền thì cốt trọng hậu.

Quẻ Đỉnh có đủ những đức sáng suốt, vui thuận, đắc trung, cương (hào 2) nhu (hào 5) ứng viện nhau để làm việc đời, thì có việc gì mà không hanh thông?

Quẻ này cũng như quẻ Tỉnh, hào trên cùng tốt nhất vì tới lúc thành công.

51. Quẻ Thuần Chấn

Quẻ Thuần Chấn là quẻ thứ 51 trong Kinh dịch, còn được gọi là quẻ Chấn.

  • Nội quái là Chấn (Sấm)
  • Ngoại quái là Chấn (Sấm)
Quẻ Thuần Chấn
Quẻ Thuần Chấn

Sấm động thì hanh thông. Lúc sấm nổ ầm ầm mà nơm nớp lo sợ thì sau sẽ cười nói ha ha. Sấm động trăm dặm mà không mất muỗng và rượu nghệ (đồ tế thần).

Sấm phát động thì vạn vật mới nảy nở, cho nên bảo là hanh thông. Khi có điều gì kinh động mà nớp nớp lo sợ, giữ gìn sửa mình thì không bị tai hoạ mà sau sẽ được vui vẻ. Sấm vang động xa đến trăm dặm, mà tinh thần vẫn vững, không đến nỗi đánh mất đồ tế thần (cái muỗng và rượu làm bằng lúa mạch hoà với nghệ) thế là tốt, hanh thông.

52. Quẻ Thuần Cấn

Quẻ này còn được gọi là quẻ Cấn, là quẻ số 52 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là cấn (Núi)
  • Ngoại quái là Cấn (Núi)
Quẻ Thuần Cấn
Quẻ Thuần Cấn

Không thể động hoài được, sẽ tới lúc phải ngưng, cho nên sau quẻ Chấn tới quẻ Cấn. Cấn có nghĩa là núi, núi đứng yên một chỗ, cho nên cũng có nghĩa là ngừng lại.

Quẻ này vốn là quẻ Khôn, lấy nét thứ ba, dương của quẻ Càn thay vào nét thứ ba, âm của Khôn mà thành một nét dương ở trên, hai nét âm ở dưới; nét dương ngưng lại ở trên, hai nét âm cũng bị chặn ở dưới, cho nên đặt tên là quẻ Cấn (ngừng).

Giảng thêm, lúc đáng ngừng thì ngừng, lúc đáng đi thì đi, động tĩnh đều hợp thời.

Đại Tượng truyện khuyên người quân tử chỉ nên ngừng ở chỗ làm trọn bổn phận của mình và đừng trật ra ngoài bổn phận của mình (bất xuất kỳ vị)

53. Quẻ Phong Sơn Tiệm

Quẻ Phong Sơn Tiệm còn được gọi là quẻ Tiệm, là quẻ số 53 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Cấn (núi)
  • Ngoại quái là Tốn (gió)
Quẻ Phong Sơn Tiệm
Quẻ Phong Sơn Tiệm

Ngừng rồi thì có lúc phải tiến lần lần, cho nên sau quẻ Cấn tới quẻ Tiệm. Tiệm là tiến lần lần.

Tiệm: Nữ qui, cát, lợi trinh. Quẻ này trên là Tốn (ở đây có nghĩa là cây), dưới là Cấn (núi). Trên núi có cây, có cái tượng dưới thấp lần lần lên cao, nên đặt tên là Tiệm.

Cấn còn có nghĩa là ngăn, Tốn còn có nghĩa là thuận, ngăn ở dưới mà thuận ở trên, để cho tiến, nhưng không cho tiến vội mà từ từ thôi. Như trường hợp con gái về nhà chồng, việc gả con, phải thận trong, thung dung, không nên hấp tấp, có vậy mới tốt.

Khuyên người quân tử nên theo tượng quẻ này mà tu thân, tiến lần lần cho được thành người hiền, rồi thành bậc thánh, để cải thiện phong tục cho dân (Quân tử dĩ cư hiền đức, thiện tục).

54. Quẻ Lôi Trạch Quy Muội

Quẻ Lôi Trạch Quy Muội còn gọi là quẻ Quy Muội, là quẻ thứ 54 trong Kinh Dịch.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Chấn (Sấm)
Quẻ Lôi Trạch Quy Muội
Quẻ Lôi Trạch Quy Muội

Đã tiến lên thì phải tới, về một nơi nào đó (nơi đó là mục đích); cho nên sau quẻ Tiệm tới quẻ Qui muội. Qui là về, muội là em gái; qui muội là em gái về nhà chồng.

Nội quái là Đoài (con gái nhỏ), ngoại quái là Chấn (con trai lớn); chấn lại có nghĩa là động, Đoài có nghĩa là vui vẻ, thuận theo; con gái nhỏ về với trưởng nam, cho nên gọi là quy muội.

Hào đẹp nhất trong quẻ là hào 5. Việc kén dâu, kén vợ, trọng người có đức, không hợm mình cao sang, giàu có, coi thường phục sức, mà khiêm tốn.

55. Quẻ Lôi Hỏa Phong

Quẻ này còn được gọi là quẻ Phong, là quẻ thứ 55 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Chấn (Sấm)
Quẻ Lôi Hỏa Phong
Quẻ Lôi Hỏa Phong

Quy là về, là tới nơi, tới mục đích, đạt kết quả (qui kết), mà đạt được kết quả thì thịnh lớn, cho nên sau quẻ Qui (muội) tới quẻ Phong (thịnh lớn).

Dưới là Ly (sáng suốt), trên là Chấn (động) sáng suốt mà hành động thì làm nên được sự nghiệp thịnh lớn. Chỉ bậc vương giả có quyền có vị mới làm tới nơi được. Khi đã thịnh lớn thì người sáng suốt biết rằng sẽ phải suy nên thường lo; nhưng đừng nên lo suông, cứ giữ được đạo trung như mặt trời (nội quái Ly có nghĩa là mặt trời) đứng ở giữa trời thì sẽ tốt.

Đại Tượng truyện áp dụng vào việc hình ngục, khuyên người trị dân nên sáng suốt mà soi xét tình dân mạnh mẽ xử đoán thì mau xong việc.

Tên quẻ là thịnh lớn, rất tốt mà không có hào nào thật tốt, hào nào cũng có lời răn đe. Cổ nhân muốn cảnh cáo chúng ta ở thời thịnh lớn, có phúc thì cũng có sẵn mầm hoạ, phải cẩn thận lắm mới được.

Các quẻ khác, thường hào dương ứng với âm, âm ứng với dương mới tốt; quẻ này trái lại, dương ứng với dương (như 1 và 4) mới tốt. Đó cũng là một lời khuyên nữa: ở thời thịnh, người ta thường vì quyền lợi chia rẽ nhau mà hoá suy, phải biết đồng đức, đồng tâm với nhau, thì mới tránh được hoạ.

56. Quẻ Hỏa Sơn Lữ

Quẻ Hỏa Sơn Lữ còn gọi là quẻ Lữ, là quẻ thứ 56 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Cấn (Núi)
  • Ngoại quái là Ly (Hỏa)
Quẻ Hỏa Sơn Lữ
Quẻ Hỏa Sơn Lữ

Thịnh lớn đến cùng cực thì phải suy, đến nỗi mất chỗ ở, phải đi ở đậu đất khách, cho nên sau quẻ Phong tới quẻ Lữ. Lữ là bỏ nhà mà đi tha phương.

Lữ: tiểu hanh, lữ trinh, cát. Chỗ ở của lửa là mặt trời hay lò, chứ không phải ở trên núi: trên núi lâu lâu vẫn có đám lửa cháy rừng hay đốt rừng, nhưng chỉ một thời gian ngắn thôi. Cho nên dùng các tượng lửa (ly) ở trên núi Cấn để chỉ cảnh bỏ nhà mà đi ở đậu quê người.

Đại tượng truyện khuyên rằng phải xử đoán sáng suốt (Ly) và thận trọng (như Cấn) đừng giam tội nhân quá lâu trong ngục (quân tử dĩ minh thận dụng hình, như bất lưu ngục).

57. Quẻ Thuần Tốn

Quẻ Thuần Tốn là quẻ thứ 57 trong Kinh dịch, hay còn được gọi là quẻ Tốn.

  • Nội quái là Tốn (Gió)
  • Ngoại quái là Tốn (Gió)
Quẻ Thuần Tốn
Quẻ Thuần Tốn

Lâm vào cảnh ở quê người thì thái độ nên thuận tòng người, cho nên sau quẻ Lữ tới quẻ Tốn. Tốn là gió mà có nghĩa là thuận, là nhập vào.

Tốn: tiểu hanh, lợi hữu du vãng , lợi kiến đại nhân. Thuận thì hơi được hanh thông, tiến hành thì có lợi, lựa bậc đại nhân mà tin theo thì có lợi. Quẻ này có một hào âm ở dưới hai hào dương, là âm phục tòng dương, nên gọi là Tốn. Tiểu nhân mà phục tòng quân tử thì có thể tốt, nhưng phải có việc để tíến hành, chứ không phải chỉ ở yên mà tốt, lại phải lựa bậc đại nhân (có tài, đức) mà tin theo.

58. Quẻ Thuần Đoài

Quẻ này là quẻ thứ 58 trong Kinh dịch còn được gọi là quẻ Đoài.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Đoài (Đầm)
Quẻ Thuần Đoài
Quẻ Thuần Đoài

Tốn có nghĩa là nhập vào, hễ nhập được vào lòng nhau, hiểu lòng nhau, thì mới ưa nhau mà hoà duyệt, vui vẻ với nhau, cho nên sau quẻ Tốn tới quẻ Đoài. Đoài là chằm mà cũng có nghĩa là hoà duyệt.

Đoài; Hanh. Lợi trinh. Đoài là chằm, cũng là thiếu nữ. Nước chằm làm cho cây cỏ vui tươi, sinh vật vui thích; thiếu nữ làm cho con trai vui thích. Vui thích thì hanh thông, miễn là phải hợp với đạo chính; phải ngay thẳng, thành thực, đoan chính. Đoài có hai hào dương ở phía trong, một hào âm ở ngoài, nghĩa là trong lòng phải thành thực rồi ngoài mặt nhu hoà, như vậy là hợp với đạo chính, tốt.

Đại tượng truyện khuyên người quân tử nên họp bạn cùng nhau giảng nghĩa lý, đạo đức, rồi cùng nhau thực hành (dĩ bằng hữu giảng tập), để giúp ích cho nhau mà hai bên cùng vui vẻ.

59. Quẻ Phong Thủy Hoán

Quẻ này là quẻ thứ 59 trong Kinh dịch, còn được gọi là quẻ Hoán.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Tốn (Gió)
Quẻ Phong Thuỷ Đoán
Quẻ Phong Thuỷ Đoán

Hoà vui đến cực điểm rồi thì sẽ ly tán, vì vậy sau quẻ đoài đến quẻ Hoán. Hoán là lìa, tan tác.

Trên là gió, dưới là nước (Khảm cũng có thể hiểu là mây – như quẻ Thủy lôi Truân, cũng gọi là Vân Lôi truân); gió thổi trên nước (hay mây) làm nước tung tóe ra (hay mây tan rã ra), cho nên đặt tên quẻ là Hoán.

Đại tượng truyện khuyên sau khi giải tán rồi lại nên nghĩ tới việc nhóm họp lại, mà muốn nhóm họp, thống nhất nhân tâm thì nên đặt lễ tế Thượng đế, tế Tổ tiên.

Sáu hào quẻ Hoán ý nghĩa rất phân minh: hào 1, còn mong cứu chữa được; hào 2 ly tán đã nhiều rồi, chưa cứu được; hào 3 có thể bắt tay làm việc, muốn vậy phải bỏ lòng vị kỷ đi; hào 4, phải giải tán bè phái để đoàn kết toàn dân; hào 5 phải ra hiệu lệnh mới, ban phát của riêng, hào 6 thì thành công. Quan trọng nhất là lời khuyên hào 4 và 5.

60. Quẻ Thủy Trạch Tiết

Quẻ Thủy Trạch Tiết là quẻ thứ 60 trong Kinh dịch, còn được gọi là quẻ Tiết.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)
Quẻ Thủy Trạch Tiết
Quẻ Thủy Trạch Tiết

Không thể để cho ly tán hoài được, tất phải chặn bắt lại, tiết chế lại, cho nên sau quẻ Hoán tới quẻ Tiết.

Theo tượng quẻ, trên chằm có nước; bờ chằm hạn chế số nước chứa trong chằm, cho nên đặt tên là quẻ Tiết.

Cái gì cũng vừa phải thì mới tốt, thái quá cũng như bất cập đều xấu cả. Quẻ này có ba hào cương, ba hào nhu, không bên nào quá; lại thêm hào 2 và hào 5 đều là dương cương mà đắc trung, như vậy là xử sự đươc trúng tiết, cho nên việc gì cũng hanh thông.

Thoán truyện khuyên nhà cầm quyền nên theo luật tiết chế của trời đất: bốn mùa thay đổi, nắng mưa, nóng lạnh đều có chừng mực, mà trị dân: hạn chế lòng ham muốn, tính xa xỉ của con người, bắt dân làm việc vừa sức thôi, như vậy không tốn của cải, không hại dân

Đại tượng truyện khuyên người quân tử (quân tử ở đây trỏ hạng người trị dân) đặt ra số, độ, nghĩa là hạn định một chừng mực nào đó trong sự làm việc và hưởng thụ của dân, tùy đạo đức, tài nghệ của mỗi người.

61. Quẻ Phong Trạch Trung Phu

Quẻ này còn gọi là quẻ Trung Phu, là quẻ số 61 trong Kinh dịch.

  • Nội quái là Đoài (Đầm)
  • Ngoại quái là Tốn (Gió)
Quẻ Phong Trạch Trung Phu
Quẻ Phong Trạch Trung Phu

Đã định tiết chế thì người trên phải giữ đức tín để người dưới tin theo, cho nên sau quẻ Tiết tới quẻ Trung phu. Trung phu là có đức tin (phu) ở trong (trung) lòng.

Trung phu: Đồn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh. Quẻ này ở giữa có hai hào âm (hai nét đứt), như trong lòng trống rỗng (hư tâm) không có tư dục, tư ý; còn 4 hào dương là nét liền, đặc, thực (trái với hư), mà hào 2 và hào 5 lại đắc trung (ở giữa nội và ngoại quái), vậy là có đức trung thực. Do đó mà đặt tên quẻ là Trung phu

Đại tượng truyện cho rằng gió ở trên, chằm ở dưới, là gió (làm ) động được nước như lòng thành thực cảm động được người. Nên tuy lòng trung thành mà xử việc thiên hạ; như xử tội thì sét đi xét lại, tìm cách cứu tội nhân, tha cho tội chết.

62. Quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

Quẻ này là quẻ số 62 trong Kinh dịch hay còn gọi là quẻ Tiểu Quá.

  • Nội quái là Cấn (Núi)
  • Ngoại quái là Chấn (Sấm)
Quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá
Quẻ Lôi Sơn Tiểu Quá

Tin (Trung phu) mà làm ngay, không xét đều tin đó phải hay không , thì có thể mắc lầm lỗi, cho nên sau quẻ Trung phu tới quẻ Tiểu quá. Quá có hai nghĩa: lỗi; ra ngoài cái mức vừa phải thoán từ dưới đây dùng nghĩa sau.

Quẻ này trái với quẻ Đại quá số 28. đại quá có 4 hào dương ở giữa, 2 hào âm ở dưới cùng và trên cùng, như vậy dương nhiều hơn âm, mà dương có nghĩa là lớn, âm là nhỏ, cho nên Đại quá có nghĩa là cái lớn (dương) nhiều hơn. Tiểu quá có 2 hào dương ở giữa, 4 hào âm ở trên và dưới, như vậy là âm – tức cái nhỏ – nhiều hơn dương tức cái lớn; cho nên đặt tên là Tiểu quá. Tiểu quá là cái nhỏ nhiều hơn; nhưng cũng có nghĩa là quá chút ít.

Theo Thoán truyện, các hào dương (lớn) đều không đắc trung, là quân tử nhất thời, không làm việc lớn được.

Theo Đại tượng truyện, Chấn ở trên Cấn là tiếng sấm ở trên núi, bị nghẹt vì núi mà thu hẹp lại, nên gọi là Tiểu quá. Người quân tử ở thời này chỉ nên làm quá trong việc nhỏ, như có thể quá cung kính, quá thương cảm trong việc ma chay, quá tiết kiệm.

Quẻ này khuyên quân tử ở vào thời tiểu nhân quá nhiều thì đừng nên quá cương như hào 3, mà nên mềm mỏng một chút, biến thông như hào 4.

63. Quẻ Thủy Hỏa Ký Tế

Quẻ này còn gọi là quẻ Ký Tế, là quẻ thứ 63 của Kinh dịch.

  • Nội quái là Ly (Hỏa)
  • Ngoại quái là Khảm (Nước)
Quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế
Quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế

Quá là hơn, tài đức có chỗ nào hơn người trong một việc gì đó thì làm nên việc ấy, cho nên sau quẻ Tiểu quá tởi quẻ Kí tế. Tế là vượt qua sông, là nên; kí tế là đã vượt qua, đã nên, đã thành.

Trong thoán từ này, hai chữ ‘Hanh tiểu”, Chu Hi ngờ là “tiểu hanh” mới đúng; tiểu hanh nghĩa là việc nhỏ, được hanh thông. Chúng tôi cho cách hiểu của Phan Bội Châu (theo Thoán truyện) là đúng hơn, nên dịch như trên.

Quẻ này trên là nước, dưới là lửa. Lửa có tính bốc lên mà ở dưới nước , nước thì chảy xuống, thế là nước với lửa giao với nhau, giúp nhau mà thành công. Cũng như nồi nước để ở trên bếp lửa, lửa bốc lên mà nước mới nóng, mới sôi được.

Đại Tượng truyện cũng căn dặn phải phòng trước lúc loạn, lúc suy.

Kí tế vốn là một quẻ tốt, nhưng chỉ ba hào đầu là khá tốt, còn ba hào sau thì càng tiến lên càng xấu: hào 5, kém phúc hào 2, mà hào trên cùng (ướt đầu) so với hào 1 (ướt đuôi) còn xấu hơn nhiều. Vẫn là lời khuyên gặp thời thịnh phải cẩn thận, đề phòng lúc suy.

64. Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế

Quẻ này là quẻ số 64 trong Kinh dịch, còn được gọi là quẻ Vị Tế.

  • Nội quái là Khảm (Nước)
  • Ngoại quái là Ly (Hỏa)
Quẻ Hỏa Thuỷ Vị Tế
Quẻ Hỏa Thuỷ Vị Tế

Kinh Dịch kết thúc bằng quẻ Vị Tế (chưa xong việc) mà trước đó lại là quẻ Ký Tế (đã xong việc). Ý nghĩa của nó là mọi sự việc tưởng chừng như đã kết thúc nhưng thực ra thì không bao giờ kết thúc. Suy rộng ra thì vạn vật trong vũ trụ cũng vậy. Sự chuyển động, thay đổi nói chung là không có đầu mà cũng chẳng có cuối.

Thoán từ khuyên đừng nên như con chồn con, nóng nảy hấp tấp, mới sửa soạn qua sông mà đã làm ướt cái đuôi, không qua được nữa, không làm được việc gì lợi cả, không tiếp tục được đến cùng.

Đại tượng khuyên phải xem xét kỹ càng mà đặt người, vật vào chỗ thích đáng, thì mới nên việc, đừng đặt lửa ở trên nước chẳng hạn như quẻ này.

Kinh Dịch bắt đầu bằng hai quẻ Càn, Khôn, gốc của vạn vật; ở giữa là hai quẻ Hàm và Hằng, đạo vợ chồng, gốc của xã hội, tận cùng bằng hai quẻ Kí tế và Vị tế đã xong rồi lại chưa xong. Như vậy là hàm cái nghĩa việc trời đất cũng như việc của loài người, không bao giờ xong.

65. Lời kết

Trải qua hàng ngàn năm, Kinh dịch đã được bổ sung rất nhiều nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng tinh hoa một cách rõ ràng. Đồng thời, Kinh dịch được áp dụng vào nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, mệnh lý học, quân sự,… Cho tới nay, Kinh dịch gồm 64 quẻ kinh dịch. Mỗi quẻ dịch chia thành 6 phần, mỗi phần gọi là một Hào. Các thành phần này được biểu diễn trong một Thái cực đồ (gọi tắt là Âm – Dương đồ), nhằm miêu tả quan hệ giữa 2 trạng thái của sự chuyển dịch. Khi Dương đạt tới cực đỉnh thì Âm bắt đầu phát sinh và ngược lại.

Hy vọng sau bài viết này, quý vị sẽ có nhiều hơn những hiểu biết về 64 quẻ kinh dịch. Để từ đó, cùng ngẫm ý nghĩa ứng nghiệm của 64 quẻ dịch này vào trong cuộc sống, dự đoán hôn nhân, kinh doanh…, tránh điều hung hại, gặp nhiều may mắn. Ngoài ra, bạn cũng có thể theo dõi tin tức phong thủy Việt cũng như sử dụng miễn phí các công cụ tra cứu (gieo quẻ, bói quẻ, lập lá số Bát tự, Tử vi, xem ngày tốt xấu,…) bằng cách cài đặt ứng dụng Thăng Long Đạo Quán. Bên cạnh đó, ứng dụng còn cung cấp cho người dùng một bản tin hàng ngày luận giải về công việc, tài lộc, sức khỏe, tình duyên nhằm gợi ý cho bạn những điều nên và không nên làm để cuộc sống thuận buồm xuôi gió. 

Tải ứng dụng Thăng Long Đạo Quán theo Android hoặc iOS tại đây: